Với kho tàng nghệ thuật trên thế giới, chúng ta vốn có nhiều trường phái. Trong số đó, trường phái dã thú được nghe nói đến là cái tên khá đáng chú ý là. Mặc dù chỉ tồn tại với 5 năm thế nhưng mà nó đã ảnh hưởng tới sự sản xuất của hội họa và nghệ thuật tạo hình. Nó chính là tiền đề vô cùng quan trọng cho sự hình thành của nghệ thuật trừu tượng cũng như chủ nghĩa lập thể.

Sự ra đời trường phái dã thú

Vốn ra đời vào những năm đầu của thế kỷ XX. Trước tiên phải kể đến các bức tranh chủ nghĩa Hậu hoàn hảo của Paul Gauguin, sự bắt nguồn của trường phái nghệ thuật dã thú. Chính việc áp dụng màu sắc nghệ thuật tượng trưng đặc sắc của ông đã giúp cho sự phát hành trường phái dã thú. Qua những tác phẩm của mình, người nghệ sĩ tài ba đã minh chứng rằng màu sắc có vai trò truyền tải vô vàn những cảm xúc đa dạng. Ông đã mang đến cảm hứng mạnh khỏe đến các họa sĩ trẻ đương thời, khiến họ có thể độc lập sáng tạo với sắc màu.

Đặc điểm trường phái dã thú

Màu sắc độc đáo và táo bạo

Đặc trưng trường phái dã thú là ở cách sử dụng màu sắc khỏe khoắn chống lại đường lối nghệ thuật kiểu học việc khô cứng. Chủ nghĩa Dã thú tăng nhanh vai trò của màu sắc, dùng màu với cường độ cao nhất để phát triển sức mạnh biểu cảm đó là sự nổi loạn với những sắc đỏ, xanh cobalt, xanh lá cây, vàng nguyên chất rực rỡ.

Tạo hình cá tính

Về tạo hình, bằng những nét bút khỏe khoắn, kích động và dữ dằn; không khó hóa đường nét để tìm kiếm cá tính, biểu lộ tối đa tình cảm của họa sĩ hội họa Dã thú không còn nương tựa triệt để vào phép tắc giải phẫu, vào phối cảnh, vào tỉ lệ thực và tả chân, thậm chí đôi khi cả sự có lí của ánh sáng mà chủ trương giải phóng vẻ ngoài

Hình thức khắc hoạ tối giản

Các họa sĩ trường phái dã thú thường dành sự thử nghiệm cùng lối vẽ tối giản và phong cách trừu tượng thay cho Chủ nghĩa Hiện thực. Bởi đối với họ, điều quan trọng nhất là bố cục có nhiều màu, chú trọng các gam màu nổi bật, không khó và ngẫu nhiên, thay cho việc vẽ y chang những thứ mắt thường nhìn thấy.
>>> Xem thêm:
Bộ Sưu Tập Tranh Treo Tường Tối Giản Độc Đáo Nhất

Những hoạ sĩ và tranh trường phái dã thú

Henri Matisse (1869-1954) được nghe nói đến là thủ lĩnh của trường phái dã thú. Về bề ngoài biểu thị, Matisse không tìm cách khắc ghi hình ảnh vật thể theo thực tế mà chú trọng đến mô tả tình cảm bộc phát qua các nét bút mạnh, thô, có cảm tưởng như phá vỡ rào cản bề ngoài. Tranh của ông chỉ biểu thị một sự xếp đặt các yếu tố hội họa khác biệt. Matisse áp dụng các diện phẳng và dùng hiệu quả tương phản của các tông màu nóng lạnh, của cường độ ánh sáng mạnh giữa các diện để phát hành cảm giác về không gian, hình khối. Ông cũng nắm được các kỹ thuật từ nghệ thuật Arab từ vùng Trung Đông và nghệ thuật của thổ dân châu Phi – sử dụng các tuyến đơn tạo hình lẫn tổ hợp tuyến hòa hợp với các mảng màu tạo thành module để tạo hoa văn, chất cảm nguyên liệu. Bút pháp của Matisse cũng khác toàn diện cách làm cổ điển khi không giấu nét bút hoặc dùng để vờn khối mà phô diễn hẳn ra nét thô mạnh, lộ rõ trên mặt tranh.

Trong bức tranh trường phái dã thú mang tên Bà Matisse, họa sĩ đã dùng những gam màu đối chọi nhau, chẳng liên quan gì đến thực tế tự nhiên. Có cảm giác ở tác phẩm này, Henri Matisse đã bỏ qua các vai trò sắc độ trong việc tạo nên hiệu quả khối và không gian. Từ đó, thay thế bằng chính sự tác động đầy tương phản của màu sắc một cách thành công.

Vlaminck (1876-1958)  vốn căm ghét các quy tắc cũng như công thức thẩm mỹ kinh viện. Ông biểu lộ cảm xúc lên mặt bức tranh thông qua việc giải phóng nguồn năng lượng chuyển động từ nét bút và sự tương phản giữa các màu nguyên thủy. Một trong những tác phẩm vô cùng kinh điển của Vlaminck là “Phong cảnh với những cây đỏ”. Ông đã áp dụng những tổ hợp màu nguyên thủy. Những màu đỏ, vàng, đen như được chuyển thẳng từ màu xuống toan vẽ trên những mảng lớn mà không hề có chút sự pha trộn. Tương tự như bức “Les Bateaux – Lavoirs”, Vlaminck cũng sử dụng bộ màu nguyên bản đỏ, vàng, lam để làm căn bản cho sự hòa sắc. Chất “dã thú” còn được đẩy cao trào từ nét vẽ phóng túng, mặc cho cảm xúc cbị hi phối đến độ gần như nguệch ngoạc. Hơn hết, tác giả cũng không ngần ngại khắc hoạ tranh bằng ngón tay khi cần thiết.

Bên cạnh Matisse và Vlaminck, chúng ta còn có Andre Derain cùng chủ đề ưa thích là phong cảnh, khu vực cảng, bến sông,… Tuy Derain có hòa sắc khá trữ tình thế nhưng vẫn tin dùng các gam màu nguyên đặc sắc. Các sắc màu ông ưa dùng nhất có thể kể đến màu lam, xanh lá cây và tím.

Ban đầu Andre Derain sử dụng kỹ thuật vẽ thông qua mảng màu nhỏ gần như điểm màu, hao hao bút pháp của Signac. Những điểm màu của ông lại lớn hơn, đủ kích thước có thể sống tự thân, đúng với ý đồ nhấn mạnh màu sắc và vào sức bộc lộ của màu sắc mà tranh trường phái dã thú theo đuổi. Từ 1906, cách thể hiện của Derain thay đổi, ông đã dùng mảng lớn, vẻ ngoài độc lập vào kỹ thuật nên tính chất tác phẩm biểu thị rất mạnh. Bảng màu bùng nổ với các gam đỏ vàng, dù vẫn là khung cảnh quen thuộc nhưng không gian trong tranh lại mang sắc thái khác, tiềm ẩn sức mạnh của sự phóng khoáng và sắc độ tương phản mạnh.

Một sự chấm phá khác trong phái dã thú có lẽ chính là Georges Rouault. Tranh của ông mang trên mình phong cách khác hẳn, nhiều phần chân dung liên quan đến chủ đề xã hội, tôn giáo và lịch sử. Georges Rouault thường lấy cảm hứng từ Kinh thánh và nhà thờ để khắc hoạ. Tranh của ông thường có bố cục chính xác, đúng đắn. Ông không dùng những màu sắc bị chói gắt như phần lớn nghệ sĩ trường phái dã thú khác mà lại ưa chuộng gam màu đen, đỏ tối và màu lam sẫm.

Bức chân dung "Vị vua già", cho thấy sự ảnh hưởng của tôn giáo và mỹ thuật Thiên chúa giáo về quan điểm hội họa của Georges Rouault. Ông dùng nét và cách thức vẽ như vẽ tranh kính trong các nhà thờ thời Trung cổ, nhất là những màu đỏ trầm và màu lam có ánh tím. Về việc tạo hình, Rouault đã khắc hoạ vị vua già với nhiều mảng phẳng chắc chắn, được bố trí ngay ngắn, một không khí cổ xưa cho bức tranh.

Lời Kết

Trường Phái Dã Thú ra đời như một ngôi sao trên bầu trời nghệ thuật, tuy vậy nhưng lại nhanh chóng lụi tàn trong một thời gian ngắn. Trường Phái Dã thú ra đời năm 1905, thu hút sự quan tâm của dư luận để đạt đến đỉnh cao năm vào 1907 và dần thoái trào, gần như không còn sự hồi sinh từ sau năm 1920. Ngay từ đầu, trường phái dã thú vốn không nhận được sự ủng hộ của giới sưu tầm cũng như bị các nhà phê bình và công chúng xa lánh. Thế nhưng với giới họa sĩ, họ lại nhìn thấy ở đó nguồn cảm hứng cho những sáng tạo mới. Chính trường phái dã là trường phái đầu tiên mang đến sự tiếp cận tiến bộ cho nghệ thuật tạo hình. Thông qua việc từ bỏ những nguyên tắc cổ điển thành công. Có thể nói, trường phái dã thú đã mở ra con đường mới mẻ cho nghệ thuật thế kỷ XX.

>>> Xem thêm: Tìm Hiểu Ngay Ý Nghĩa Siêu Thú Vị Từ Trường Phái Ấn Tượng